Lịch sử hoạt động Hawker_Tempest

Chiếc Tempest V Loạt 1 thuộc Phi đội 3 Không quân Hoàng gia Anh.

Chiếc Tempest V được giao đến các phi đội hoạt động vào tháng 4 năm 1944 (các phi đội số 3 và 56) đóng tại căn cứ Không quân Hoàng gia Newchurch, Kent, nơi nó thực hiện hoàn hảo những phi vụ tấn công tầm thấp truyền thống của chiếc Typhoon, vốn đang được chiếc Tempest thay thế khi tốc độ sản xuất tăng dần. Tuy nhiên, vào tháng 6 năm 1944, những chiếc Bom bay V-1 Đức đầu tiên bắt đầu được phóng đến London và khả năng bay tầm thấp xuất sắc của chiếc Tempest làm cho nó trở thành công cụ được ưa chuộng để chống lại những trái tên lửa bay nhanh không người lái này. Các phi đội Tempest ghi được một tỉ lệ đáng kể trong tổng số chiến công tiêu diệt những trái bom bay của Không quân Hoàng gia (638 trong tổng số 1.846 chiếc bị máy bay tiêu diệt).

Những chiếc Tempest đời đầu chịu nhiều sự cố về động cơ chủ yếu do lượng xăng 150 octane không đủ đáp ứng. Cũng có những vấn đề về hệ thống nạp khí, hệ thống bôi trơn, và phần hút gió của bộ chế hòa khí (một tia lửa đánh ngược đơn giản có thể gây ra sự nổ).

Chiếc Tempest cũng được bố trí để hỗ trợ các đạo quân Đồng Minh tiến công vượt qua phía bắc châu Âu và tiếp chiến máy bay tiêm kích Đức mỗi khi bắt gặp. Lực lượng Tempest là một phần của Phi đoàn 122 đặt căn cứ tại sân bay Volkel gần Uden, Hà Lan và bao gồm Phi đội 486 Không quân Hoàng gia New Zealand (đơn vị New Zealand duy nhất trang bị Tempest), các phi đội 80, 56 và 274 Không quân Hoàng gia Anh. Vào tháng 12 năm 1944, tháng đầu tiên tham gia chiến dịch, 52 máy bay Đức bị tiêu diệt cùng 89 đoàn tàu hỏa, với thiệt hại 20 chiếc Tempest. Tiếp theo sau cuộc tấn công bất ngờ của Không quân Đức vào ngày 1 tháng 1 năm 1945 (Chiến dịch Bodenplatte), Phi đoàn 122 phải chịu đựng gánh nặng các phi vụ chiến đấu của Không lực 2 Chiến thuật Không quân Hoàng gia Anh, dưới áp lực chiến đấu căng thẳng, mất 47 phi công trong tháng đó.

Chiếc Tempest cũng ghi được những chiến thắng đối với các máy bay phản lực Đức mới, bao gồm Messerschmitt Me 262. Hubert Lange, một phi công Me 262, nói: "Đối thủ nguy hiểm nhất của chiếc Messerschmitt Me 262 chính là loại máy bay Anh Hawker Tempest, rất nhanh ở cao độ thấp, rất cơ động và trang bị hỏa lực mạnh". Một số bị tiêu diệt bởi một chiến thuật được gọi là "Rat Code". Những chiếc Tempest được báo động cất cánh ngay mỗi khi có một chiếc Me 262 xuất hiện trên không. Chúng không đánh chặn chiếc máy bay phản lực, nhưng thay vào đó sẽ bay đến căn cứ của Me 262, sân bay Rheine-Hopsten.[1] Mục đích là tấn công những chiếc máy bay phản lực khi nó tiếp cận hạ cánh, lúc mà chúng trở nên mong manh nhất: bay chậm, bật cánh tà và không thể tăng tốc nhanh chóng. Người Đức phản ứng bằng cách bố trí một "đường băng pháo phòng không" với hơn 150 khẩu pháo 20 mm bốn nòng tại Rheine-Hopsten để bảo vệ việc hạ cánh. Sau khi bảy chiếc Tempest bị mất do pháo phòng không tại Rheine-Hopsten trong vòng một tuần, chiến thuật "Rat Code" được chấm dứt.

Phi công lái Tempest có thành tích cao nhất là Thiếu tá D.C. Fairbanks, một người Mỹ đã gia nhập Không quân Hoàng gia Canada vào năm 1941. Đến giữa năm 1944, ông phục vụ trong Phi đội 274. Khi ông bị bắn rơi và trở thành tù binh chiến tranh vào tháng 2 năm 1945, ông đã bắn rơi 12 máy bay Đức (cùng một nửa chiến công chung) khiến ông trở thành "Ách" Tempest có chiến công cao nhất. Ông đã được trao tặng Huân chương Chữ thập bay Dũng cảm Anh Quốc.